Hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại - hai khái niệmtưởng chừng dễ phân biệt nhưng thực tế vẫn gây không ít nhầm lẫn. Việc phân biệthai loại hợp đồng này có ý nghĩa rất quan trọng bởi tính phổ biến của các hoạt độngdân sự, kinh doanh thương mại trong đời sống hàng ngày. Trong bài viết hôm nay, Khánh An sẽ cùng bạn đọc tìm hiểu vấn đề trên.
- Hợp đồng dânsự: Hợp đồnglà sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,nghĩa vụ dân sự (Điều 385 Bộ luật dân sự 2015).
- Hợp đồng thươngmại: Hợp đồngthương mại là hợp đồng phát sinh trong hoạt động thương mại. Hoạt động thương mạilà hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ,đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác (Khoản1 Điều 3 Luật Thương mại 2005).
Có thể thấy, hoạt động trong lĩnh vực thương mại là mộtloại hành vi dân sự đặc thù. Do đó, hợp đồng thương mại là một trong các loại Hợpđồng dân sự, hai loại hợp đồng này tồn tại mối quan hệ giữa các chung và cái riêng.
Là loại hợp đồng dân sự, hợp đồng thương mại có những điểmgiống hợp đồng dân sự về bản chất (sự thoả thuận và thống nhất ý chí), đều phảnảnh các quan hệ tài sản mang tính hàng hoá, tiền tệ, đều có chủ thể là pháp nhân,cá nhân… Ngoài ra, hợp đồng trong lĩnh vực thương mại cũng có những đặc điểm riêngcủa nó để phân biệt với hợp đồng dân sự. Cụ thể:
- Hợp đồng dân sự: Chủ thể của hợp đồng dân sự có thểlà cá nhân, tổ chức. Cá nhân từ 18 tuổi trở lên, có đầy đủ năng lực hành vi đượcphép tham gia tất cả các hợp đồng dân sự và tự mình chịu trách nhiệm về việc thựchiện hợp đồng đó. Cá nhân dưới 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa đầy đủchỉ trở thành chủ thể của hợp đồng dân sự trong những trường hợp nhất định. Cácbên ký kết hợp đồng dân sự không nhất thiết phải có tư cách pháp nhân.
- Hợp đồng thương mại: Chủthể của hợp đồng thương mại chủ yếu là thương nhân. Thương nhân bao gồm tổ chứckinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (Khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005).Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải thương nhân cũng có thể trở thành chủthể của hợp đồng thương mại trong những trường hợp cụ thể do pháp luật quy định.
Như vậy, các bên chủ thể của hợp đồng dân sự có thể làcá nhân, tổ chức bất kì; còn đối với hợp đồng thương mại thì ít nhất một bên chủthể phải là thương nhân.
Trong hợp đồng thương mại ít nhất một bên chủ thể phải là thương nhân
Thông thường, các hợp đồng dân sự sẽ được điều chỉnh bởiBộ Luật Dân sự và các luật liên quan tới nội dung thoả thuận. Trong khi đó, cáchợp đồng thương mại sẽ chịu sự điều chỉnh của Luật Thương mại, Luật Đầu tư, LuậtDoanh nghiệp...
Tuy nhiên những hợp đồng không nhằm mục đích sinh lợicủa một bên trong giao dịch với thương nhân, trong trường hợp bên thực hiện hoạtđộng không nhằm mục đích sinh lợi chọn áp dụng Luật Thương mại thì hợp đồng đóvẫn chịu sự điều chỉnh của Luật Thương Mại (Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại2005).
Hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại đều có thể đượcthể hiện dưới hình thức bằng văn bản, bằng miệng, bằng hành vi vụ thể hoặc cũngcó thể được thực hiện bằng lời nói.
Tuy nhiên khác biệt ở chỗ các hợp đồng dân sự có thểđược giao kết bằng miệng nhiều hơn thông qua sự tín nhiệm, giao dịch đơn giản,có tính phổ thông và giá trị thấp. Trong khi đó do tính chất phức tạp trong hoạtđộng thương mại và những yêu cầu chặt chẽ trong nội dung của hợp đồng nên phápluật quy định nhiều hợp đồng thương mại phải được kí kết dưới hình thức văn bảnhoặc hình thức khác có giá trị pháp lí thương đương.
Nhiều hợp đồng thương mại phải được kí kết dưới hình thức văn bản
Hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại đều có đối tượnglà hàng hoá hoặc dịch vụ (công việc).
Bên cạnh đó, trong lĩnh vực thương mại còn một số loạihợp đồng có đối tượng chưa được biết đến trong hợp đồng dân sự truyền thống, như:Hợp đồng thành lập công ty, Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), Hợp đồng đầu tưtheo hình thức đối tác công tư (PPP)… Đối tượng của các loại hợp đồng này là mộthoạt động mang tính tổ chức để hình thành các doanh nghiệp hoặc để thực hiện hoạtđộng thương mại.
- Về căn cứ phạt vi phạm: Trong hợp đồng dân sự, trách nhiệm nộp phạtvi phạm chỉ phát sinh khi các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng(Điều 418 Bộ luật dân sự 2015). Cơ sở để phạt vi phạm trong hợp đồng thương mạicũng tương tự trong hợp đồng dân sự: cần có sự thoả thuận của các bên (Điều 300Luật thương mại 2005).
Tuy nhiên khác biệt ởchỗ, đối với hợp đồng dân sự, một số lĩnh vực ngoại lệ có quy định về căn cứ phạtvi phạm mà không cần có sự thoả thuận của các bên.
Ví dụ: Theo Điều 375 Bộluật dân sự 2015: Khi đến hạn mà bên có nghĩa vụ chậm trả tiền (ví dụ trong hợpđồng mua bán, hợp đồng vay,…) thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứngvới thời gian chậm trả. Tiền lãi phải trả chính là tiền phạt do vi phạm nghĩa vụkhông trả tiền đúng hạn.
- Về mức phạt vi phạm: Theo quy định tại khoản 2 Điều 422 Bộ luật dânsự 2015, đối với hợp đồng dân sự thì mức vi phạm do các bên tự thỏa thuận, trừtrường hợp luật liên quan có quy định khác. Nghĩa là các bên có quyền tự do lựachọn mức phạt vi phạm mà không bị khống chế, chỉ trừ một số trường hợp ngoạilệ có áp đặt mức phạt vi phạm tối đa.
Ví dụ 1: Theo khoản 3Điều 66 Luật Đấu thầu 2013, nhà thầu không được hoàn trả bảo đảm thực hiện hợpđồng trong trường hợp vi phạm hợp đồng. Giá trị của khoản bảo đảm là từ 2% đến10% giá trúng thầu. Tiền bảo đảm đó chính là tiền phạt khi vi phạm hợp đồng.
Ví dụ 2: Theo Điều 146Luật Xây đựng 2014, các công trình xây dựng sử dụng 30% vốn Nhà nước trở lênthì mức phạt không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm.
Đối với hợp đồng thươngmại, mức phạt vi phạm được khống chế tối đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồngbị vi phạm (Điều 301 Luật thương mại 2005). Trường hợp ngoại lệ duy nhất đối với hợp đồng thương mại là mức phạt đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ giám định cấp chứngthư giám định có kết quả sai do lỗi vô ý của mình không vượt quá mười lần thùlao dịch vụ giám định (Điều 266).
- Về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại:
Đối với hợp đồng dân sự:Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận vềbồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ phải chịu phạt vi phạm (Điều 418 Bộ luậtdân sự 2015).
Như vậy, nếu đã quy địnhphạt vi phạm trong hợp đồng dân sự thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại sẽ khôngmặc nhiên phát sinh nữa. Nếu muốn bên vi phạm ngoài chịu phạt vi phạm còn phảichịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì buộc phải quy định thêm về trách nhiệmbồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Đối với hợp đồng thương mại: Trường hợpcác bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chếtài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. (Khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại2005).
Như vậy, nếu trong hợpđồng thương mại có quy định về phạt vi phạm thì trách nhiệm bồi thường thiệt hạicủa bên bị vi phạm vẫn mặc nhiên phát sinh khi có thiệt hại xảy ra mà không cầnphải quy định thêm trong hợp đồng.
Các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự chỉ có thểđưa ra Toà án. Trong khi đó các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng thương mại cóthể nhờ cơ quan Tòa án hoặc Trọng tài giải quyết theo sự lựa chọn của các bên.
Khánh An vừa cùngbạn đọc Phân biệt Hợp đồng dân sự và Hợp đồng thương mại. Mong rằng bài viết đãgiúp bạn đọc hiểu rõ hơn về hai loại hợp đồng này.
Hiểu biết pháp luậtngày nay không chỉ cần thiết đối với các chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư mà cònquan trọng với tất cả mọi người. Bạn đọc đừng quên theo dõi Khánh An mỗingày để nâng cao kiến thức pháp lý và chủ động bảo vệ tốt nhất quyền lợi củamình. Nếu có bất cứ vướng mắc nào, đừng ngạiliên hệ với Khánh An để được tư vấn trực tiếp.
CÔNG TY TNHH TƯ VẤN KHÁNH AN
Văn phòng: Toà nhà 88 Tô Vĩnh Diện, Khương Trung, Thanh Xuân, Hà Nội
Hotline: 02466.885.821hoặc 096.987.7894
Email: info@khanhanlaw.net
Website:https://khanhanlaw.com/